Lực lượng hai bên Chiến_dịch_Biên_giới

Pháp

Trên con đường dài 116 km xuyên qua rừng rậm núi cao từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, Pháp đặt hệ thống đồn bốt ở các thị trấn Lạng Sơn, Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Đông Khê, và Cao Bằng, cùng nhiều đồn nhỏ nằm rải rác chung quanh.

Về lực lượng, quân Pháp ở Cao Bằng có 3 tiểu đoàn vừa lê dương Maroc và nhiều lính phụ lực bản xứ do đại tá Charton phụ trách, trực thuộc bộ chỉ huy vùng đặt tại Lạng Sơn do đại tá Constans chỉ huy. Ở Lạng Sơn có 5 tiểu đoàn lính Pháp, thiết giáp, trọng pháo và nhiều lính phụ lực bản xứ. Ở Đông Khê (cách Cao Bằng 30 km về phía đông nam), có 2 đại đội lê dương dưới quyền của hai đại uý Vollaire và Alliou. Ở Thất Khê (cách Đông Khê khoảng 20 km), có một đại đội khác trấn giữ. Ở Na Chàm, có một đại đội do đại úy Mattéi và trung úy Aluzot chỉ huy.

Tổng cộng quân Pháp có 10 tiểu đoàn Âu Phi, 1 tiểu đoàn và 9 đại đội lính Việt; 27 khẩu pháo các loại gồm: 2 khẩu 155mm, 15 khẩu 105mm, 1 khẩu 94mm, 5 khẩu 75mm, 4 khẩu 57mm; 4 đại đội công binh; 4 đại đội cơ giới; 6 máy bay chiến đấu và 2 máy bay trinh sát liên lạc.

Các tiểu đoàn lê dương là các đội quân tinh nhuệ, có khả năng đánh phòng ngự tốt. Các tiểu đoàn Tabor lính Maroc có khả năng đánh rừng núi. Lực lượng lính bản xứ Thổ - Nùng cũng được đánh giá là xông xáo và thông thạo chiến trường.

Lực lượng cơ động của Pháp ở biên giới thuộc GTM (Binh đoàn Maroc – Groupement tirailleur Marocain) và do Trung tá Le Page chỉ huy. Tính trên toàn chiến trường Bắc Bộ là 9 tiểu đoàn cơ động/12 tiểu đoàn cơ động Đông Dương/124 tiểu đoàn của quân đội Liên hiệp Pháp. Trên thực tế, Pháp đã điều thêm 2 tiểu đoàn cơ động lên Biên giới là 1 BEP (Tiểu đoàn dù lê dương số 1) và 3 BCCP.

Hệ thống đồn bốt của Pháp rất vững chắc, các vị trí đều có lô cốt bê tông cốt sắt kiên cố. Các vị trí này là những mục tiêu khó khăn đối với trang bị của Việt Minh thời bấy giờ. Tuy nhiên, hệ thống này cũng có những điểm yếu. Đó là bố trí thành tuyến độc đạo kéo dài, một số vị trí dễ thành đột xuất, cô lập và hở sườn dễ bị chia cắt; hậu cần, tiếp tế, tải thương đều khó khăn và gần như phụ thuộc hoàn toàn vào không quân; khả năng sử dụng vũ khí khí tài công nghệ cao như xe tăng, máy bay bị hạn chế.

Quân đội Nhân dân Việt Nam

Quân số các đơn vị là 25.000 người. Bộ chỉ huy chiến dịch và cơ quan: 4.500 người. Tổng cộng: 29.500 người. Ngoài ra còn có một số đại đội bộ đội địa phương và du kích của hai tỉnh Cao BằngLạng Sơn.

Lãnh đạo chiến dịch là Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, gồm:

Hình ảnh du kích quân trong tranh Nhớ một chiều Tây Bắc của Phan Kế An

Ngoài việc biên chế đã bước đầu thống nhất, các đơn vị chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam (Đại đoàn 308, trung đoàn 174 và 209, trung đoàn pháo binh 675) được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1950; họ có nhiều tiến bộ trong các kỹ thuật chiến đấu như kỹ thuật đánh bộc phá, đánh công kiên,... Song song với huấn luyện quân sự, bộ đội đã qua các lớp giáo dục chính trị. Một số mặt hạn chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam là cách thức du kích vẫn chiếm ưu thế; thiếu kinh nghiệm chiến đấu quy mô lớn với yêu cầu hiệp đồng chặt chẽ; tổ chức và biên chế cồng kềnh; trình độ tổ chức của chỉ huy chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng.

Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam đối diện với bài toán hậu cần quy mô lớn nên tiến hành rất khó khăn. Kết quả thực tế hậu cần chiến dịch đã tiếp tế cho bộ đội 1.886 tấn lương thực thực phẩm, 41 tấn đạn, cứu chữa hơn 1.550 thương binh, huy động 121.700 lượt người đi dân công, phục vụ 1.716.000 ngày công.

Do tầm quan trọng của chiến dịch, Hồ Chí Minh cũng trực tiếp tham gia công tác chỉ đạo và tham mưu. Khi chia tay với Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên đường đi chiến dịch, chủ tịch Hồ Chí Minh dặn: "Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!"[2]

Ngày 2/9/1950, sau khi họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường ra mặt trận, đoàn hộ tống đi chiến dịch mang mật danh “Thắng Lợi”. Đây là lần đầu đoàn hộ tống đi theo có tới sáu người. Trên đường đi, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thanh niên bốn câu thơ, về sau trở thành khẩu hiệu của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam:

“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên”

.

Ngày 9/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi đồng bào Cao - Bắc - Lạng", cảm tạ đồng bào ba tỉnh đã đóng góp rất nhiều cho chiến dịch, như góp quân lương, sửa đường sá, vận tải, chuyên chở, giúp đỡ bộ đội và kêu gọi “Toàn thể đồng bào ba tỉnh, các ủy ban kháng chiến và hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to”.

Ngày 10/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Sở chỉ huy chiến dịch ở làng Tả Phày Tử thuộc huyện Quảng Yên, phía bắc thị xã Cao Bằng. Ngày 13/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở chỉ huy chiến dịch để đến mặt trận Đông Khê để trực tiếp theo dõi đánh trận mở màn, và chỉ thị cho bộ đội: “Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu”. Đến thăm Trung đoàn 296 đang đóng gần Đông khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ “phải đánh thắng trận mở màn của chiến dịch Biên giới”. Tại đây, Hồ Chí Minh đã làm bài thơ[3]:

“Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”